Hotline: 0886856666

Phân tích tài chính doanh nghiệp là gì? Mục tiêu, nội dung và các phương pháp sử dụng

(5/5) - 66 bình chọn.
10/10/2021 11781

 

Phân tích tài chính doanh nghiệp là một công cụ quan trọng trong hệ thống quản lý của doanh nghiệp. Sau những năm đổi mới, hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường, khoa học phân tích hoạt động kinh doanh cũng có nhiều thay đổi, bổ sung theo hướng phù hợp với nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Rất nhiều tài liệu về phân tích họat động kinh doanh đã được ra đời. Các tài liệu này thường bao hàm nhiều nội dung chưa thật thống nhất với nhau, do các người viết đứng ở những góc độ khác nhau, có quan điểm khác nhau.

Qua bài viết này, Thành Nam sẽ cùng làm rõ với bạn đọc: Phân tích Tài chính doanh nghiệp là gì? Mục tiêu, nội dung và các phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Cùng theo dõi nhé:

1. Phân tích tài chính doanh nghiệp là gì?

Phân tích tài chính doanh nghiệp là quá trình sử dụng các kỹ thuật phân tích thích hợp để xử lý tài liệu từ báo cáo tài chính và các tài liệu khác, hình thành hệ thống các chỉ tiêu tài chính nhằm đánh giá thực trạng tài chính và dự đoán tiềm lực tài chính trong tương lai.

Như vậy, phân tích tài chính doanh nghiệp trước hết là việc chuyển các dữ liệu tài chính trên báo cáo tài chính thành những thông tin hữu ích. Quá trình này có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu của nhà phân tích.

Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp được sử dụng như là công cụ khảo sát cơ bản trong lựa chọn quyết định đầu tư. Nó còn được sử dụng như là công cụ dự đoán các điều kiện và kết quả tài chính trong tương lai, là công cụ đánh giá của các nhà quản trị doanh nghiệp. Phân tích tài chính sẽ tạo ra các chứng cứ có tính hệ thống và khoa học đối với các nhà quản trị

2. Mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp:

Hoạt động phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp liên quan đến nhiều đối tượng, từ các nhà quản trị ở doanh nghiệp đến các nhà đầu tư, ngân hàng, nhà cung cấp, cơ quan quản lý nhà nước... nên mục tiêu phân tích của mỗi đối tượng khác nhau. Chẳng hạn: 

Đối với các nhà cung cấp tín dụng: người cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp thường tài trợ qua hai dạng là tín dụng ngắn hạn và tín dụng dài hạn. Đối với các khoản tín dụng ngắn hạn (vay ngắn hạn, tín dụng thương mại, ...); người tài trợ thường quan tâm đến điều kiện tài chính hiện hành, khả năng hoán chuyển thành tiền của tài sản lưu động và tốc độ quay vòng của các tài sản đó. Ngược lại, đối với các khoản tín dụng dài hạn, nhà phân tích thường hướng đến tiềm lực trong dài hạn, như dự đoán các dòng tiền, đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong dài hạn cũng như các nguồn lực đảm bảo khả năng đáp ứng các khoản thanh tóan cố định (tiền lãi, trả nợ gốc..). trong tương lai. Do khả năng sinh lời là yếu tố an toàn cơ bản đối với người cho vay nên phân tích khả năng sinh lời cũng là một nội dung quan trong đối với các nhà cung cấp tín dụng. Ngoài ra, người cung cấp tín dụng dù là ngắn hạn hay dài hạn đều quan tâm đến cấu trúc nguồn vốn vì cấu trúc nguồn vốn mang tiềm ẩn rủi ro và an toàn đối với người cho vay. 

Mối quan tâm của các nhà quản trị ở doanh nghiệp khi tiến hành phân tích bao quát tất cả các nội dung của phân tích tài chính, từ cấu trúc tài chính đến các vấn đề hiệu quả và rủi ro của doanh nghiệp. Giải quyết các vấn đề trên không chỉ đưa ra những phương thức nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, chính sách tài trợ phù hợp mà còn tiên liệu họat động của doanh nghiệp như từ cách nhìn của các đối tương phân tích khác. 

Đối với người chủ sở hữu doanh nghiệp, tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp mà có sự tách rời giữa vai trò sở hữu với vai trò qủan lý. Chính sự tách rời này dẫn đến người chủ sơ hữu thường không quan tâm các vấn đề như cách nhìn của nhà quản lý doanh nghiệp. Thông thường, người chủ sở hữu quan tâm đến khả năng sinh lời vốn đầu tư của họ, phần vốn chủ sở hữu có không ngừng được nâng cao không, khả năng nhận tiền lời từ vốn đầu tư ra sao. Do vậy, phân tích tài chính từ góc độ người chủ sở hữu mang tính tổng hợp. 

Nói chung, có nhiều đối tượng quan tâm đến phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. Mục tiêu phân tích suy cho cùng sẽ phụ thuộc vào quyền lợi kinh tế của cá nhân, tổ chức có liên quan đến doanh nghiệp. Do một vấn đề phân tích luôn có tác động với các nội dung khác và phân tích tài chính đối với các nhà quản trị doanh nghiệp có phạm vi rất rộng nên giáo trình này đề cập đầy đủ mọi khía cạnh của công tác phân tích đối với các nhà quản trị. Vận dụng trong thực tế phân tích đòi hỏi sự linh họat, uyển chuyển của nhà phân tích trong từng giai đoạn.

3. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp

Xuất phát từ mục tiêu phân tích tài chính cũng như bản chất và nội dung các quan hệ tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp được chia thành những nhóm sau: 

Một là: Phân tích cấu trúc tài chính và cân bằng tài chính.

Nội dung phân tích này nhằm đánh giá khái quát cấu trúc tài sản, cấu trúc nguồn vốn của đơn vị; qua đó phát hiện những đặc trưng trong việc sử dụng vốn, huy động vốn. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có tính tự chủ cao trong huy động vốn và sử dụng vốn nên phân tích tài chính còn quan tâm đến cân bằng tài chính của doanh nghiệp. 

Hai là: Phân tích hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Họat động trong cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp có những hướng chiến lược phát triển riêng trong từng giai đoạn. Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng nhưng mục tiêu đó luôn gắn liền với mục tiêu thị phần. Do vậy, doanh thu và lợi nhuận là hai yếu tố quan trọng khi đánh giá hiệu quả. Hiệu quả của doanh nghiệp cần xem xét một cách tổng thể trong sự tác động giữa hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính. Phân tích hiệu quả họat động của doanh nghiệp không chỉ xem xét hiệu quả cá biệt mà còn xem xét hiệu quả tổng hợp. 

Ba là: Phân tích rủi ro của doanh nghiệp.

Bản chất của họat động kinh doanh luôn mang tính mạo hiểm nên bất kỳ nhà phân tích nào cũng quan tâm đến rủi ro của doanh nghiệp. Qua đó, phát hiện những nguy cơ tiềm ẩn trong họat động kinh doanh, trong huy động vốn và công tác thanh toán. Khía cạnh rủi ro trong phân tích tài chính ở giáo trình này chú trọng đến rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính và rủi ro phá sản. 

Bốn là: Phân tích giá trị của doanh nghiệp.

Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tài chính doanh nghiệp với hai chức năng cơ bản là huy động vốn và sử dụng vốn nhưng hướng đến mục tiêu là tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp được nâng cao không chỉ là kết quả tổng hợp từ sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp mà còn liên quan đến thái độ, trách nhiệm của doanh nghiệp trước cộng đồng. Đó chính là phương cách để doanh nghiệp nâng cao vị trí của mình trên thị trường, từ đó tác động ngược lại đến họat động tài chính. Phân tích giá trị doanh nghiệp có thể được xem như là phần “mở” trong phân tích tài chính.

4. Các nguồn thông tin sử dụng trong Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp

Để có thể sử dụng các công cụ Phân tích tài chính doanh nghiệp hiệu quả nhất, chúng ta cần kết hợp nhiều nguồn thông tin sử dụng khác nhau để đảm bảo các thông tin được đa chiều nhất, phản ánh đúng nhất về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Kiểm toán Thành Nam sẽ điểm tên các Nguồn thông tin sử dụng cơ bản nhất trong Phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp:

- Bảng cân đối kế toán

- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh

- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ

- Thuyết minh Báo cáo tài chính

- Các nguồn thông tin khác:

Ngoài thông tin từ các báo cáo kế toán ở doanh nghiệp, phân tích tài chính doanh nghiệp còn sử dụng nhiều nguồn thông tin khác để các kết luận trong phân tích tài chính có tính thuyết phục. Các nguồn thông tin khác được chia thành ba nhóm sau: 

Thông tin liên quan đến tình hình kinh tế

Họat động kinh doanh của doanh nghiệp chịu tác động bởi nhiều nhân tố thuộc môi trường vĩ mô nên phân tích tài chính cần đặt trong bối cảnh chung của kinh tế trong nước và các nền kinh tế trong khu vực. Kết hợp những thông tin này sẽ đánh giá đầy đủ hơn tình hình tài chính và dự báo những nguy cơ, cơ hội đối với họat động của doanh nghiệp. Những thông tin thường quan tâm bao gồm: 

+ Thông tin về tăng trưởng, suy thoái kinh tế 
+ Thông tin về lãi suất ngân hàng, trái phiếu kho bạc, tỷ giá ngoại tệ
+ Thông tin về tỷ lệ lạm phát
+ Các chính sách kinh tế lớn của Chính phủ, chính sách chính trị, ngoại giao của
nhà nước...

Thông tin theo ngành

Ngoài những thông tin về môi trường vĩ mô; những thông tin liên quan đến ngành, lĩnh vực kinh doanh cũng cần được chú trọng. Đó là:

+ Mức độ và yêu cầu công nghệ của ngành
+ Mức độ cạnh tranh và qui mô của thị trường
+ Tính chất cạnh tranh của thị trường hay mối quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà
cung cấp và khách hàng
+ Nhịp độ và xu hướng vận động của ngành
+ Nguy cơ xuất hiện những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng...v...v

Những thông tin trên sẽ làm rõ hơn nội dung các chỉ tiêu tài chính trong từng ngành, lĩnh vực kinh doanh, đánh giá rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp.

Thông tin về đặc điểm họat động của doanh nghiệp 

Do mỗi doanh nghiệp có những đặc điểm riêng trong tổ chức sản xuất kinh doanh và trong phương hướng họat động nên để đánh giá hợp lý tình hình tài chính, nhà phân tích cần nghiên cứu kỹ lưỡng đặc điểm họat động của doanh nghiệp. Những vấn đề cần quan tâm bao gồm:

+ Mục tiêu và chiến lược họat động của doanh nghiệp, gồm cả chiến lược tài chính và chiến lược kinh doanh.
+ Đặc điểm quá trình luân chuyển vốn trong các khâu kinh doanh ở từng loại hình doanh nghiệp.
+ Tính thời vụ, tính chu kỳ trong hoạt động kinh doanh
+ Mối liên hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp, khách hàng, ngân hàng, và các đối tượng khác.
+ Các chính sách hoạt động khác.

5. Vận dụng các phương pháp trong phân tích tài chính 

5.1. Phương pháp so sánh

Phương pháp so sánh là phương pháp sử dụng phổ biến nhất trong phân tích tài chính. Để vận dụng phép so sánh trong phân tích tài chính cần quan tâm đến tiêu chuẩn so sánh, điều kiện so sánh của chỉ tiêu phân tích cùng như kỹ thuật so sánh. 

Tiêu chuẩn so sánh là chỉ tiêu gốc được chọn làm căn cứ so sánh. Khi phân tích tài chính doanh nghiệp, nhà phân tích thường sử dụng các gốc sau:

+ Sử dụng số liệu tài chính ở nhiều kỳ trước để đánh giá và dự báo xu hướng của các chỉ tiêu tài chính. Thông thường, số liệu phân tích được tổ chức từ 3 đến 5 năm liền kề.
+ Sử dụng số liệu trung bình ngành để đánh giá sự tiến bộ về họat động tài chính của doanh nghiệp so với mức trung bình tiên tiến của ngành. Số liệu trung bình ngành thường được các tổ chức dịch vụ tài chính, các ngân hàng, cơ quan thống kê cung thấp theo nhóm các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong trường hợp không có số liệu trung bình ngành, nhà phân tích có thể sử dụng số liệu của một doanh nghiệp điển hình trong cùng ngành để làm căn cứ phân tích.
+ Sử dụng các số kế hoạch, số dự toán để đánh giá doanh nghiệp có đạt các mục tiêu tài chính trong năm. Thông thường, các nhà quản trị doanh nghiệp chọn gốc so sánh này để xây dựng chiến lược họat động cho tổ chức của mình. 

Điều kiện so sánh yêu cầu các chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp phải phản ánh cùng nội dung kinh tế, có cùng phương pháp tính toán và có đơn vị đo lường như nhau. Bản chất của vấn đề này liên quan đến tính so sánh của chỉ tiêu phân tích. Những thay đổi về chế độ tài chính kế toán là một trong những lý do ảnh hưởng đến tính không so sánh được của chỉ tiêu phân tích. Chẳng hạn, ở Việt Nam từ ngày 01/01/1999 bắt đầu áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với nhiều loại hàng hóa dịch vụ. Sự thay đổi này dẫn đến phương pháp tính các chỉ tiêu doanh thu, chi phí ở doanh nghiệp từ năm 1999 khác biệt so với những năm trước đó. Nhà phân tích cần chú ý đến ảnh hưởng của những thay đổi này để đánh giá đúng hơn về hiệu quả họat động của doanh nghiệp. Ngoài ra, tính so sánh được còn liên quan việc tuân thủ theo chuẩn mực kế toán đã ban hành. Có thể lấy điển hình về sự thay đổi phương pháp kế toán. Mặc dù nguyên tắc nhất quán yêu cầu doanh nghiệp phải áp dụng nhất quán các phương pháp kế toán giữa các kỳ kế toán (đánh giá hàng tồn kho, phương pháp khấu hao...) nhưng doanh nghiệp vẫn có quyền thay đổi phương pháp kế toán. Những thay đổi này phải được trình bày trong thuyết minh báo cáo tài chính để nhà phân tích có thể đánh giá những ảnh hưởng của phương pháp kế toán đối với chỉ tiêu phân tích. Trong trường hợp này, một báo cáo tài chính đã được kiểm toán là cơ sở đáng tin cậy đối với nhà phân tích. 

Kỹ thuật so sánh trong phân tích tài chính thường thể hiện qua các trường hợp sau:
+ Trình bày báo cáo tài chính dạng so sánh nhằm xác định mức biến động tuyệt đối và tương đối của từng chỉ tiêu trong báo cáo tài chính qua hai hoặc nhiều kỳ, qua đó phát hiện xu hướng của các chỉ tiêu. Bảng 1.2 trình bày mẫu bảng phân tích báo cáo lãi lỗ công ty ABC dạng so sánh:

Bảng 1.2. Báo cáo lãi lỗ dạng so sánh của công ty ABC

Phương pháp so sánh trong Phân tích tài chính doanh nghiệp

Trong báo cáo lãi lỗ dạng so sánh trên, cột số liệu + % thể hiện tốc độ tăng giảm của từng khoản mục so với kỳ gốc. Như vậy, một báo cáo dạng so sánh thể hiện rõ biến động của chỉ tiêu tổng hợp và các yếu tố cấu thành nên biến động tổng hợp đó. Chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế trên Bảng 1.2 là một trường hợp minh họa.

Khi phân tích báo cáo tài chính dạng so sánh, cần chú ý mối liên hệ giữa các chỉ tiêu kinh tế để phần thuyết minh số liệu chặt chẽ hơn. Chẳng hạn, khi thiết lập báo cáo lãi lỗ dạng so sánh cần xem đến mối liên hệ giữa tốc độ biến động của chỉ tiêu doanh thu với tốc độ của chỉ tiêu giá vốn hàng bán. Sự mất cân đối về tốc độ biến động của chỉ tiêu nợ phải thu khách hàng trên BCĐKT với tốc độ biến động của chỉ tiêu doanh thu đòi hỏi nhà phân tích phải tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự mất cân đối đó. 

+ Trình bày báo cáo tài chính theo qui mô chung. Với cách so sánh này, một chỉ tiêu trên báo cáo tài chính được chọn làm qui mô chung và các chỉ tiêu có liên quan sẽ tính theo tỷ lệ phần trăm trên chỉ tiêu qui mô chung dó. Báo cáo tài chính theo qui mô chung giúp đánh giá cấu trúc của các chỉ tiêu tài chính ở doanh nghiệp. Chẳng hạn, đối với bảng cân đối kế toán, để đánh giá cơ cấu tài sản của doanh nghiệp, phải chọn chỉ tiêu tổng tài sản làm qui mô chung. Có thể minh họa từ BCĐKT của công ty ABC như sau: 

Bảng 1.3. BCĐKT theo qui mô chung của công ty ABC

Phương pháp so sánh trong Phân tích tài chính doanh nghiệp

Tổng cộng Tài sản Một BCĐKT được thiết kế theo qui mô chung thể hiện cấu trúc tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp, qua đó phát hiện những đặc trưng trong phân bổ tài sản và huy động vốn. Trong ví dụ của công ty ABC, có thể thấy Tài sản ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ tài sản ở doanh nghiệp: vào cuối năm N chiếm 83,3% và cuối năm N+1 là 74,7%. Hàng tồn kho là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn nhất nhưng có xu hướng giảm rõ rệt vào cuối năm N+1.

Đối với báo cáo lãi lỗ, thông thường chỉ tiêu doanh thu thuần được chọn làm qui mô chung để xác định tỷ lệ của các chỉ tiêu khác so với doanh thu thuần.

Trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp trực tiếp, cần xử lý lại các dòng tiền vào và dòng tiền ra để xác định qui mô chung là tổng dòng tiền vào (nguồn tiền) hoặc tổng dòng tiền ra (sử dụng tiền), qua đó có thể đánh giá: nguồn tiền chủ yếu tạo ra từ đâu và sử dụng cho mục đích nào. 

+ Thiết kế các chỉ tiêu có dạng tỷ số. Một tỷ số được xây dựng khi các yếu tố cấu thành nên tỷ số phải có mối liên hệ và mang ý nghĩa kinh tế. Chẳng hạn, để phân tích khả năng thanh toán khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp cần sử dụng những yếu tố có khả năng chuyển hóa thành tiền trong ngắn hạn. Do vậy, có thể xây dựng các tỷ số phản ánh khả năng thanh toán ngắn hạn như sau:
Tỷ số 1 = Tiền / Nợ ngắn hạn
Tỷ số 2 = (Tiền + ĐTNH + Nợ phải thu) / Nợ ngắn hạn
Tỷ số 3 = Tài sản ngắn hạn / Nợ ngắn hạn


Một trường hợp khác của số tỷ số là các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả. Chỉ tiêu tổng quát đánh giá hiệu quả xây dựng như sau: 

Hiệu quả = Kết quả cuối cùng / Yếu tố đầu vào

trong đó, yếu tố đầu vào có thể là tài sản, vốn đầu tư, vốn chủ sở hữu...và kết quả cuối cùng có thể là doanh thu, lợi nhuận...Các chỉ tiêu cụ thể về hiệu quả sẽ đề cập ở các chương sau. 

Với nguyên tắc thiết kế các tỷ số như trên, nhà phân tích có thể xây dựng chỉ tiêu phân tích phù hợp với đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp. Các tỷ số còn là công cụ hỗ trợ công tác dự đoán tài chính. 

5.2. Phương pháp loại trừ

Trong một số trường hợp, phương pháp này được sử dụng trong phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu tài chính giả định các nhân tố còn lại không thay đổi. Phương pháp phân tích này còn là công cụ hỗ trợ quá trình ra quyết định. Chẳng hạn, chỉ tiêu khả năng sinh lời của tài sản (ROA) thường được tính như sau:

 ROA = Lợi nhuận / Tổng tài sản bình quân x100% 


Nếu dừng lại ở phép so sánh thì chưa thể hiện rõ nhân tố nào tác động đến khả năng sinh lời của tài sản. Tuy nhiên, khi xây dựng chỉ tiêu này trong quan hệ với hiệu suất sử dụng tài sản và khả năng sinh lời từ doanh thu thì chỉ tiêu ROA được chi tiết như sau: 


ROA = (Doanh thu thuần / Tổng tài sản bình quân) x  (Lợi nhuận / Doanh thu thuần)

= Hiệu suất sử dụng tài sản x Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu

Với phương pháp loại trừ, nhà phân tích sẽ thấy được nhân tố nào ảnh hưởng chủ yếu đến khả năng sinh lời tài sản, qua đó phát hiện những lợi thế (hay bất lợi) trong hoạt động của doanh nghiệp và định hướng họat động trong kỳ đến. 

5.3. Phương pháp cân đối liên hệ

Các báo cáo tài chính đều có đặc trưng chung là thể hiện tính cân đối: cân đối giữa tài sản và nguồn vốn; cân đối giữa doanh thu, chi phí và kết quả; cân đối giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra, cân đối giữa tăng và giảm...Cụ thể là các cân đối cơ bản: 

Tổng tài sản = Tài sản ngắn hạn + Tài sản dài hạn

Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn

Lợi nhuận = Doanh thu - Chi phí

Dòng tiền thuần = Dòng tiền vào - Dòng tiền ra

Dựa vào những cân đối cơ bản trên, trong phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp thường vận dụng phương pháp cân đối liên hệ để xem xét ảnh hưởng của từng nhân tố đến biến động của chỉ tiêu phân tích. Chẳng hạn, với biến động của tổng tài sản giữa hai thời điểm, phương pháp này sẽ cho thấy loại tài sản nào (hàng tồn kho, nợ phải thu, TSCĐ...) biến động ảnh hưởng đến biến động tổng tài sản của doanh nghiệp. Như vậy, dựa vào biến động của từng bộ phận mà chỉ tiêu phân tích sẽ được đánh giá đầy đủ hơn.

5.4. Phương pháp phân tích tương quan

Giữa các số liệu tài chính trên báo cáo tài chính thường có mối tương quan với nhau. Chẳng hạn, mối tương quan giữa doanh thu (trên Báo cáo lãi lỗ) với các khoản nợ phải thu khách hàng, với hàng tồn kho (trên Bảng cân đối kế toán). Thông thường, khi doanh thu của đơn vị càng tăng thì số dư các khoản nợ phải thu cũng gia tăng, hoặc doanh thu tăng dẫn đến yêu cầu về dự trữ hàng cho kinh doanh gia tăng. Một trường hợp khác là tương quan giữa chỉ tiêu ‘Chi phí đầu tư xây dựng cơ bản’ với chỉ tiêu ‘Nguyên giá TSCĐ’ ở doanh nghiệp. Cả hai số liệu này đều trình bày trên BCĐKT. Một khi trị giá các khoản đầu tư XDCB gia tăng thường phản ánh doanh nghiệp có tiềm lực về cơ sở hạ tầng trong thời gian đến. Phân tích tương quan sẽ đánh giá tính hợp lý về biến động giữa các chỉ tiêu tài chính, xây dựng các tỷ số tài chính được phù hợp hơn và phục vụ công tác dự báo tài chính ở doanh nghiệp. 

Trên đây là những phương pháp kỹ thuật thường được vận dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, vận dụng phương pháp phân tích thích hợp cho nội dung và chỉ tiêu phân tích nào với các đánh giá tổng hợp được xem như là nghệ thuật của nhà phân tích tài chính. Mỗi nhà phân tích bằng kinh nghiệm nghề nghiệp với khả năng tổ chức dữ liệu, khả năng chẩn đoán và tổng hợp các vấn đề tài chính trong một môi trường ‘mở’ sẽ đưa ra bức tranh về tài chính doanh nghiệp. Kết qủa phân tích đó là cơ sở cho các quyết định ở doanh nghiệp.

 

Qua bài viết này, Thành Nam sẽ cùng làm rõ với bạn đọc: Phân tích Tài chính doanh nghiệp là gì? Mục tiêu, nội dung và các phương pháp sử dụng trong phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.

Nếu các bạn đọc có câu hỏi gì, hãy để ở dưới phần bình luận, đội ngũ chuyên gia của Thành Nam luôn sẵn sàng để hỗ trợ, giải đáp mọi thắc mắc từ phía độc giả.

Dịch vụ Kiểm toán Báo cáo tài chính - Dịch vụ Kế toán
Bài viết liên quan
Bài nổi bật
Bài viết gần đây
Tổng hợp văn bản pháp luật

0886856666

Chat Zalo